Quyền đàm phán của tổng thống/Các hiệp định thương mại tương hỗ

Quốc hội có quyền quyết định cuối cùng về việc Mỹ sẽ tăng hay cắt giảm thuế quan, bổ sung hoặc loại bỏ các hàng rào thương mại khác, hoặc ký kết các hiệp định thương mại đa phương hoặc song phương.

Thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ II, Quốc hội và tổng thống thường ủng hộ một cơ chế thương mại thế giới tự do và mở cửa hơn. Ðiều này đã được minh chứng bằng sự cổ vũ, ủng hộ tích cực của Mỹ đối với các vòng tiếp theo của vòng đàm phán thương mại đa phương được tiến hành từ khi thành lập GATT năm 1948 cho đến khi thành lập WTO năm 1995.

Quốc hội ủy quyền cho tổng thống và các cơ quan hành pháp đàm phán các hiệp định thương mại. Sau đó Quốc hội phải phê chuẩn luật để triển khai các hiệp định mà tổng thống đã ký kết.

Quyền Ðàm phán nhanh Hiệp định Thương mại: Ðể cuộc đàm phán hiệp định thương mại có hiệu quả hơn, Quốc hội đã có một số lần thông qua luật cho phép tổng thống có quyền “đàm phán nhanh” trong quá trình này.

Theo quyền này, Quốc hội đồng ý trước sẽ thông qua hoặc bác bỏ luật liên quan đến triển khai một hiệp định thương mại do các cơ quan hành pháp đàm phán, mà không sửa đổi. Do đó quy định này sẽ tránh những sửa đổi có thể làm thay đổi những điều khoản của hiệp định, dẫn đến phải đàm phán lại.

Ngược lại, tổng thống đống ý sẽ thảo luận toàn diện với Quốc hội khi hiệp định đang được thương lượng. Ðiều này rất quan trọng vì những hiệp định lớn như những hiệp định thành lập WTO hoặc triển khai NAFTA, có thể yêu cầu rất nhiều sự thay đổi đối với Mỹ.

Những luật trước đây cho quyền ký trực tiếp đã quy định những cuộc thảo luận với các cơ quan hành pháp, như:

    * Các cuộc họp với Ủy ban Tài chính và Thuế vụ – Hạ nghị viện, Ủy ban Tài chính Thượng nghị viện, và tất cả các ủy ban khác thuộc Quốc hội có thẩm quyền đối với những vấn đề chịu tác động của hiệp định, cũng như tham kiến các nhóm công nghiệp.
    * Thông báo cho Quốc hội trước ít nhất 90 ngày – 120 ngày đối với các hiệp định của Vòng đàm phán U-ru-goay – ý định của chính phủ về việc ký một hiệp định thương mại;
    * Ðệ trình lên Quốc hội một bản sao cuối cùng nội dung pháp lý của hiệp định, cùng với bản thảo của luật triển khai, báo cáo của bất kỳ hành động của chính phủ đưa ra để triển khai hiệp định, và những thông tin hỗ trợ cho hành động đó.

      

Luật về quyền đàm phán nhanh hết hạn vào tháng 12 năm 1993. Luật triển khai cả hai hiệp định Vòng đàm phán U-ru-goay và NAFTA đều được thông qua theo luật đàm phán nhanh.

Ðại diện Thương mại Mỹ Charlene Barshefky đã thông báo rằng chính phủ Clinton sẽ đệ trình một đề nghị khôi phục quyền đàm phán nhanh lên Quốc hội vào tháng 9.

Các hiệp định trong khuôn khổ Vòng đàm phán U-ru-goay/Luật về Hiệp định trong Khuôn khổ Vòng Ðàm phán U-ru-goay: Các Hiệp định trong Khuôn khổ Vòng Ðàm phán U-ru-goay là đỉnh cao của các vòng đàm phán giữa 125 nước trong tám năm. Các vòng đàm phán bắt đầu tại Punta del Este, U- ru-goay, vào tháng 9 năm 1986, dưới sự bảo trợ của GATT, và kết thúc tại Geneva, Thuỵ sĩ vào tháng 12 năm 1993. Các hiệp định này được ký tại Marrakesh, Ma-rốc, vào ngày 15/4/1994, bởi 111 quốc gia trong đó có Mỹ, cam kết đạt được sự phê chuẩn các hiệp định của các cơ quan lập pháp của các nước đó.

Các hiệp định trong khuôn khổ Vòng đàm phán U-ru-goay là những hiệp định thương mại rộng nhất, bao quát nhất trong lịch sử. Các hiệp định này bao gồm những cam kết giảm thuế quan trên toàn thế giới và dỡ bỏ một loạt các biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, cơ chế cấp phép hạn chế, và các tiêu chuẩn sản phẩm phân biệt đối xử.

Hiệp định này cũng bao gồm những quy tắc đa phương liên quan đến những vấn đề như các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), các quy định về xuất xứ, thủ tục cấp phép nhập khẩu, các biện pháp ngăn chặn làn sóng nhập khẩu, các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs), chống phá giá và thuế bù giá, buôn bán nông sản và mua sắm của chính phủ.

Khuôn khổ các quy định về thương mại và đầu tư dịch vụ được đặt ra trong Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS).

Hiệp định Thiết lập Cơ cấu của Tổ chức Thương mại Thế giới hợp nhất các tổ chức GATT trước đây đồng thời mở rộng tổ chức này với những phạm vi mới đối với dịch vụ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, và đầu tư.

Thỏa thuận về những Quy định và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp (Understanding on Rules and Procedures Governing the Settlement of Disputes) đã thiết lập một thủ tục giải quyết tranh chấp mới. Thủ tục này tương đối khác với thủ tục trước đây của GATT ở chỗ các quyết định do WTO thi hành.

Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA)/ Luật Triển khai NAFTA: Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ, liên kết Mỹ, Canada, Mehico, đã tạo ra một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất thế giới.

Sau khi được phê chuẩn bởi các cơ quan lập pháp của các quốc gia này, NAFTA đã có hiệu lực vào ngày 1/1/1994.

NAFTA đã hợp nhất hoặc đưa hầu hết các điều khoản của Hiệp định Mậu dịch Tự do Mỹ – Canada (FTA), có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1989. Mỹ và Canada đã chấm dứt hoạt động của hiệp định song phương khi NAFTA bắt đầu có hiệu lực. NAFTA đã bỏ một số điều khoản của Hiệp định Mậu dịch Tự do Mỹ-Canada, ví dụ như quy định về xuất xứ hàng hoá.

Trong khi triển khai, NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại thuế quan của hơn nửa số lượng mặt hàng nhập khẩu của Mỹ từ Mehico và trên 1/3 số lượng mặt hàng xuất khẩu của Mỹ sang Mehico.

NAFTA đã cam kết tất cả các bên chấm dứt những hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài là thành viên của NAFTA, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao, và tự do hoá thương mại dịch vụ. Hiệp định này cũng thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp. NAFTA cũng có một phụ lục về các tiêu chuẩn và hợp tác trong vấn đề môi trường và lao động, đưa hiệp định thương mại đầu tiên của Mỹ chính thức được gắn với những cam kết này.

Cơ quan giám sát cao nhất của NAFTA là Ủy ban Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ, bao gồm Ðại diện Thương mại Mỹ, Bộ trưởng Ngoại thương Canada, và Bộ trưởng Thương mại và Phát triển Công nghiệp Mehico. Ủy ban này đã thành lập các tổ công tác và các cơ quan tư vấn để quản lý những hoạt động hàng ngày của hiệp định.

NAFTA có những quy định riêng quản lý việc tự do hoá thương mại và đầu tư, được sử dụng bổ sung hoặc thay thế các quy định của WTO. Các quy định của NAFTA áp dụng vào các lĩnh vực bao gồm việc mở cửa đối với mua sắm của chính phủ, các tiêu chuẩn sản phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn viễn thông, đầu tư, quy định về xuất xứ hàng hoá, các biện pháp ngăn chặn làn sóng nhập khẩu, và dịch vụ.

Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do Mỹ-I-xa-ren: Hiệp định này được ký và có hiệu lực tháng 6 năm 1985. Ðây là hiệp định đầu tiên Mỹ đàm phán với nước ngoài. Những nội dung chính của hiệp định là hai bên đồng thời loại bỏ thuế quan của tất cả các loại hàng hoá trao đổi giữa hai nước trong thời gian 10 năm và loại bỏ các quy định khác hạn chế thương mại song phương. Một ủy ban chung giám sát và quản lý hiệp định và quy định việc giải quyết tranh chấp.

Thương mại Viễn thông: Ðiều 1377 của Bộ luật chung về Thương mại và Cạnh tranh năm 1988 quy định Ðại diện Thương mại Mỹ phải đánh giá hoạt động và hiệu quả của các hiệp định thương mại viễn thông Mỹ vào 31 tháng 3 hàng năm.

Ðánh giá theo điều 1377 nhằm xác định xem có bất kỳ một đạo luật, chính sách, hoặc hoạt động nào của một quốc gia có hiệp định liên quan đến viễn thông đã ký với Mỹ mà không tuân thủ theo hiệp định đó, hoặc từ chối — trong khuôn khổ của hiệp định — những cơ hội thị trường đối với các công ty Mỹ. Nếu có thì được coi là vi phạm hiệp định thương mại và bị đối xử theo điều 301.

hotline

Let’s get in touch!

Viber Zalo Messenger